CHIẾC MẶT NẠ
Ngày xưa có một ông vua rất độc ác, ông không được lòng dân cũng như quan quân trong triều. Trong một thời gian dài, ông phải đích thân cầm quân đi đánh dẹp những cuộc nổi loạn chống lại mình. Cho đến một buổi sáng thức dậy, ông cảm thấy mệt mỏi và nỗi cô đơn cùng cực xâm chiếm tâm hồn. Là một bậc đế vương nhưng ông không hề cảm thấy hạnh phúc, đi đến đâu cũng chỉ có những ánh mắt oán hận dõi theo. Ông ao ước có một cuộc sống bình yên trong việc trị vì dân chúng như những vị vua khác. Tuyệt vọng, nhà vua cho gọi pháp sư của vương quốc.
Sau khi nghe những tâm sự của nhà vua, vị pháp sư tâu:
– Thần có thể giúp bệ hạ, nhưng bệ hạ phải chuẩn bị tinh thần làm theo mọi hướng dẫn của thần.
Nhà vua đồng ý. Pháp sư thưa:
– Xin bệ hạ cho thần ba ngày để chuẩn bị, thần sẽ dâng lên bệ hạ một món quà.
Ba ngày trôi qua, đúng như giao hẹn, pháp sư dâng lên nhà vua một chiếc mặt nạ giống y như khuôn mặt của nhà vua, duy chỉ có một điều khác biệt: đường nét trên chiếc mặt nạ lại tươi vui, hòa nhã khác hẳn với khuôn mặt lúc nào cũng nghiêm nghị và cau có của ông.
Nhà vua tỏ ra không hài lòng:
– Ta không thể đeo chiếc mặt nạ này được. Chiếc mặt nạ này không phải là khuôn mặt thật của ta, sẽ không ai nhận ra ta nữa. Ta sẽ bị chôn vùi và dân chúng vẫn sẽ giữ mãi lòng oán hận đối với ta.
Vị pháp sư ôn tồn tâu:
– Nếu bệ hạ muốn thần giúp, bệ hạ phải luôn đeo chiếc mặt nạ này.
Tha thiết muốn thay đổi hoàn cảnh, nhà vua đành miễn cưỡng đồng ý. Đúng như lời vị pháp sư, kể từ khi đeo chiếc mặt nạ với những nét phúc hậu, nhà vua bắt đầu nhận được sự tuân phục của cả triều thần lẫn nhân dân.
Nhận thấy những chuyển biến đó, nhà vua rất vui lòng; và cảm xúc ấy đã tạo nên những thay đổi tích cực trong cách cai trị của ông. Ông đã quan tâm đến đời sống của nhân dân, biết lắng nghe những nguyện vọng của họ và giảm hẳn việc binh đao. Chẳng bao lâu sau đất nước trở nên thịnh trị.
Nhưng sâu thẳm tâm tư nhà vua vẫn có một nỗi buồn phiền. Ông cảm thấy mình vẫn chưa được nhìn nhận như chính con người mình. Ông nghĩ tất cả những thành quả ấy đều là nhờ cái mặt nạ phép thuật của vị pháp sư mà thôi. Trước đây ông cũng hết lòng mong muốn và dốc sức tạo dựng một đất nước thanh bình, mà nào có được! Vương quốc càng an lạc thái bình, dân chúng càng yêu quý tôn thờ nhà vua, nỗi đau khổ càng xâm chiếm tâm hồn ông.
Nhà vua không thôi dằn vặt và cuối cùng ông quyết định cho mời vị pháp sư tới và nói:
– Ta rất cám ơn ngươi đã cho ta sự thay đổi mà nhờ đó vương quốc của chúng ta đã trở nên thịnh trị như ngày hôm nay. Nhưng ta cảm thấy không thể tiếp tục mãi lừa dối mọi người… Ta quyết định sẽ không mang chiếc mặt nạ này nữa.
Nhận thấy những thay đổi tích cực trong tính cách của nhà vua suốt thời gian qua, vị pháp sư đồng ý với quyết định của quân vương.
Nhà vua đứng trước gương, ngại ngùng chờ đợi vị pháp sư từ từ tháo bỏ chiếc mặt nạ của mình – chiếc mặt nạ mà nhờ nó, vương quốc cũng như cuộc sống nội tâm của ông đã có những biến đổi tốt hơn. Có phần lúng túng khi biết rằng chiếc mặt nạ đã được gỡ bỏ, nhà vua mở to mắt ra, nhận thấy lại gương mặt xưa kia của mình.
Nhưng ngạc nhiên thay, nhà vua không thấy gương mặt cũ của mình đâu mà thay vào đó là một khuôn mặt ngời sáng và thậm chí còn tươi tắn hơn cả khuôn mặt mà chiếc mặt nạ đem lại. Nhà vua cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi hiểu ra một điều kỳ lạ: vẻ đẹp tâm hồn sẽ là hình mẫu để tạo nên những đường nét bên ngoài gương mặt; và chiếc mặt nạ, dù có tuyệt vời đến mấy, cũng chỉ là thứ tạm thời mà thôi. Không ai có thể sống mãi với chiếc mặt nạ của mình, chỉ có vẻ đẹp tâm hồn thật sự mới có thể làm nên hình ảnh đẹp nhất và bền lâu nhất!
💞
ĐẠI ĐẾ ASOKA (Vua A Dục)
Triều đại Khổng Tước trị vì được ba đời, nhưng hưng thịnh và nổi bậc nhất là đến đời Asoka. Nhà vua lúc còn nhỏ tính tình rất cuồng bạo, tướng tá lại không khôi ngô nên không được vua cha yêu mến. Vả lại ngài là con thứ, là 1 trong 101 người con, thì làm sao được chiều chuộng như những hoàng tử khác? Thế nhưng Asoka có tài xuất chúng, thông minh và mưu mô hơn những hoàng tử kia.
Vào đời ông nội của Asoka là Chandragupta đã nhiều lần đem quân dẹp những trận quấy nhiễu của Đại đế Alexander I và II ở nước Hy Lạp nằm về phía Tây Ấn. Đến đời thân phụ của người là Bindusara khéo léo trị vì, hòa hiệp thỏa thuận với vương quốc Hy Lạp, tạo thành nền văn minh phồn thịnh cho Ấn Độ đương thời. Thế nhưng, ở giữa vùng Bắc và Trung Ấn thường có những trận nhiễu loạn, vua Bindusara phải tuyển chọn những người thông minh tài giỏi trong hàng vương tử phong làm Thái thú để đi nhiếp loạn. Đồng thời, vùng Tây Ấn là một nơi có địa thế rất hiểm trở và quan trọng. Ở đấy có thành Ujjayant (Ô-xà-diễn-ni), các nước phương Tây hay dòm ngó đến, bởi nơi đây có một nền kinh tế tập trung, rất phong phú. Để chọn người ra đó coi sóc, Asoka được bổ nhiệm làm Thái thú ở Bắc Ấn và các vương tử đã phân bố bộ hạ cai trị thành Ujjayant. Việc đi dẹp loạn của Asoka do Bindusara sai đi nhằm mục đích là muốn để cho Asoka bị chết trong chiến trận. Thế nhưng Asoka đã bình định được quân phản loạn, quyền uy và tiếng tăm vang lừng.
Sau đó vài năm, Asoka được tin cấp báo là phụ vương bị bệnh nặng nên lập tức trở về Hoa Thị thành. Sau khi vua cha băng hà, người kế vị là con trai trưởng Susima vào năm 272 BC. Susima vì vụng về nhiếp chính nên khiến cho dân chúng nhiễu loạn ở Takkasìla, ở trong triều lại tranh nhau ngôi vị và kéo dài suốt bốn năm trường. Cuối cùng Asoka được thắng lợi. Đồng thời được sự giúp đỡ của Tể tướng Ràdhagypta cùng các nhân vật cao cấp trong triều đình, tất cả đã đồng tình suy cử Asoka lên ngôi. Lúc ấy vào năm 268 BC, sau Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn 218 năm.
Asoka lên ngôi trong vòng 9 năm, vì mục đích thống nhất toàn cõi Ấn Độ nên đem quân chinh phạt các nước lân cận như Kalinga thuộc nam Ấn Độ (nước này là một cường quốc, rất mạnh về kinh tế và quân sự) và các nước khác như Peshàwar, Pùri, Ganja, Thàna, Bhopal, Hyderabàd, Mysore, Bihàr, Afghanistan, Népal … Asoka đã chinh phục toàn bộ cõi Ấn.
Cuộc chiến tranh kết thúc. Asoka đã thống nhất thiên hạ cõi Ấn và một nửa nước Đại Hạ, phía Nam Án-đạt-la, phía Đông đến bờ biển, dọc ngang mỗi chiều vài ngàn dặm, và lấy Hoa Thị thành làm thủ đô.
Nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, với sự đẫm máu này, Đại đế thấy ghê tởm chiến tranh. Nhà vua thấy cảnh chiến tranh như thế lấy làm buồn thảm và hối hận về thảm họa đó. Biết bao nhiêu người dân vô tội bị giết hại, cô nhi quả phụ phải bị tai ương. Vì thế Asoka quyết định bỏ vũ lực, không động đến binh đao nữa.
Bởi do hối hận cuộc chiến tranh đẫm máu, Asoka muốn được sám hối và ăn năn những tội lỗi đã gây ra. Vì thế nhà vua quyết định trở về quy y Phật đạo và trở thành một Phật tử.
Từ khi trở về quy y Tam bảo, nhà vua đem tất cả khả năng của mình để phụng sự xã hội hầu chuộc lại tội lỗi ngày xưa. Vì thế Asoka đã thi hành chính sách cai trị thích hợp với quần chúng, bằng cách lồng giáo lý Đức Phật vào quốc chính, dốc hết tâm lực vào việc giáo dục xã hội, ban bố những điều lệ, những sắc lệnh rất phù hợp với nhân dân, giảm bớt những khắt khe cho nhân dân, lấy lòng dân làm lòng mình, dụng tinh thần bác ái ưa chuộng chân lý để đem lại sự bình an hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời tôn trọng tự do tín ngưỡng, khéo léo hòa giải những sự xung đột của các giáo phái tôn giáo khác nhau, cấm những nghi lễ giả dối, cung cấp vật dụng cho dân nghèo. Asoka quả là một ông vua nhân từ, ít có trong lịch sử Ấn Độ. Ông là một vị vua có công rất lớn đối với nền hòa bình Ấn Độ thời bấy giờ.
Nhà vua tại vị được 41 năm, thọ 70 tuổi. Những sự nghiệp của Asoka đối với quốc gia Ấn Độ rất to lớn, nhưng đối với đạo Phật càng to lớn hơn.